Ngôi nhà bỏ trống
Phần 1:
Vào mùa xuân năm 1894, cả thành phố Luân Đôn đều bàn tán xôn xao về vụ
ám sát bá tước Ronald Adair trẻ tuổi. Vụ ám sát xảy ra trong một bối
cảnh khác thường và đầy bí ẩn. Đông đảo công chúng đều biết đến những
tình tiết của vụ án, theo cách đánh giá chủ quan của cảnh sát. Nhưng vì
lý do nào đó, phần lớn những tình tiết phải giấu kín. Mười năm trôi qua,
hiện giờ tôi mới có khả năng bổ sung thêm những mắt xích còn thiếu
trong chuỗi sự kiện đầy bí ẩn kia. Bản thân vụ án đã là một điều lý thú;
nhưng những hậu quả không lường trước được đối với tôi còn quan trọng
hơn gấp nghìn lần. Nhưng hậu quả này, làm cho tôi bàng hoàng, chấn động
hơn tất cả những gì mà tôi từng gặp trong đời mình; dù cuộc đời của tôi
nếu không có sự kiện ấy thì cũng đã chứng kiến nhiều cuộc trinh thám ly
kỳ.
Thậm chí ngay bây giờ, sau nhiều năm, tôi vẫn còn cảm giác
run sợ, khi nghĩ lại câu chuyện xa xưa, và tôi vẫn bị một nỗi hoài nghi,
thảng thốt, vui buồn lẫn lộn bao trùm và xâm chiếm toàn bộ tâm hồn. Tôi
mong các bạn độc giả, vẫn thường quan tâm tới những mẩu chuyện của tôi
về những việc làm và những suy luận của một con người tuyệt vời hãy tha
thứ cho tôi, vì việc tôi không chia sẻ với các bạn điều khám phá của
mình. Tôi tự đặt cho mình một nghĩa vụ là phải báo cho các bạn tất cả sự
thật, một khi tôi không còn bị ràng buộc bởi chuyện cấm đoán xuất phát
từ chính ý muốn của bạn tôi. Câu chuyện ngăn cấm được phát ra cũng vừa
mới đây, ngày mồng ba tháng trước.
Trong thời gian tôi và
Sherlock Holmes còn gắn bó mật thiết với nhau tôi đã quan tâm một cách
sâu sắc tới những chuyện hình sự. Kể từ khi anh biệt tăm mất tích, tôi
trở thành kẻ thường xuyên theo dõi trên các báo chí tất cả các vụ án
chưa được khám phá. Đội lúc, để thỏa mãn tính hiếu kỳ, tôi đã có ý định
tham gia vào chuyện phá án, tôi sử dụng những phương pháp, thủ thuật như
của bạn tôi thường làm, mặc dù còn lâu tôi mới đạt được trình độ ấy.
Tuy
thế, không có vụ án nào lại làm cho tôi hồi hộp, lo âu bằng câu chuyện
tang thương của Ronald Adair. Trong số tài liệu điều tra, có đoạn nói
thế này :
“Vụ ám sát đã được tính toán từ trước và do một người hoặc một nhóm người lạ thực hiện”.
Sau
khi đọc xong lời nhận xét như vậy, tôi càng thấy thấm thía hơn bao giờ
hết rằng cái chết của Sherlock Holmes đã gây cho Tổ quốc chúng ta một
tổn thất to lớn biết nhường nào. Trong chuyện này, nhất thiết phải có
những tình tiết làm cho Sherlock Holmes chú ý; và như vậy hoạt động của
cảnh sát sẽ được bổ sung đầy đủ và đạt kết quả hơn nếu như họ có sự giúp
sức của bộ óc thông minh và đôi mắt quan sát tinh tế của nhà thám tử
sành sỏi nhất Châu Âu này.
Sau khi đi thăm bệnh nhân cả ngày về,
tôi lại tập trung vào những suy nghĩ làm tôi nhức đầu, đó là câu chuyện
của Adair, nhưng tôi không thể nào tìm ra được một lời giải đáp thỏa
đáng. Tôi đánh bạo lặp lại những gì mà mọi người đã biết, tôi cũng muốn
nêu lên những dữ kiện theo dạng đã được thông báo cho công chúng biết,
sau khi kết thúc cuộc điều tra.
Ngài Ronald Adair là con trai thứ
hai của bá tước Maynooth - Bá tước Maynooth là tổng đốc toàn quyền một
khu vực thuộc địa của người Anh ở Áo. Người mẹ của Adair đã từ Áo đến
nước Anh để giải phẫu mắt, cắt bỏ cái vây mọc ở mắt; và đã cùng cậu con
trai Adair và cô con gái Hilda sống ở Park Lane, số nhà 427.
Chàng
thanh niên thường giao du với những người tốt, và hình như không có
địch thủ nào; cũng chưa làm gì đáng chê trách. Đã có thời chàng đã đính
hôn với tiểu thư Edith Woodley ở bang Carstairs, nhưng trước khi xảy ra
vụ án mạng vài tháng thì cả chú rể lẫn cô dâu đã quyết định chia tay
nhau : không ai hối hận về chuyện này cả. Nói chung, cuộc đời của chàng
thanh niên trai trẻ chỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình và trong giới
thượng lưu. Tính tình anh ta điềm đạm, thói quen và sở thích không có gì
xấu. Thế nhưng một cõi chết bất ngờ nhất và kỳ lạ nhất đã chợp đi một
nhà quý tộc trẻ vô tư chuyện đó xảy ra vào khoảng 23 giờ 10 phút đến 23
giờ 20 phút ngày 30 tháng 3 năm 1894.
Ronald Adair là một người
thích cờ bạc, nhưng chưa bao giờ tỏ ra vượt quá giới hạn. Anh ta là
thành viên của ba câu lạc bộ : Baldwin, Cavendish và Bagathel. Người ta
đã điều tra và xác định rằng, trong ngày bị giết, sau bữa cơm chiều,
Ronalđ đã chơi một ván bài ở câu lạc bộ Bagathel. Thậm chí, trước bữa
cơm chiều anh ta cũng có chơi ở đấy rồi. Những người cùng chơi với anh
ta là : ngài Murray, ngài John Hardy và ngài đại tá Moran.
Adair
bị thua mất năm bảng Anh. Gia tài của anh ta khá lớn, nên việc thua bạc
như vậy không làm cho anh ta bận tâm chút nào. Anh ta hầu như ngày nào
cũng chơi và thường là được bạc.
Những lời khai của các nhân
chứng đã làm sáng tỏ thêm một chuyện. Là khoảng một tháng rưỡi trước khi
bị giết, Adair cùng chơi với ngài đại tá Moran, một buổi tối đã ăn của
ngài Godfrey Milner và huân tước Balmoral 420 bảng. Đấy là tất cả những
gì biết được về những tuần cuối cùng cửa đời anh ta.
Vào buổi tối
bất hạnh đó, anh ta từ câu lạc bộ trở về nhà đúng 22 giờ đêm. Mẹ và em
gái anh ta đi vắng : họ đi thăm người quen chưa về. Người hầu gái thề
rằng, cô ta đã nghe thấy anh ta bước vào phòng của mình. Căn phòng ấy
nằm trên tầng hai, cửa sổ hướng ra đường phố, anh dùng làm phòng tiếp
khách. Trước khi bá tước trẻ tuổi về, người hầu gái vừa nhóm lò sưởi
xong, lò sưởi vẫn còn bốc khói nghi ngút, cô ta phải mở toang các cửa sổ
để thoáng khói. Trước 23 giờ 20 phút không hề nghe một động tĩnh nào
phát ra từ căn phòng của bá tước. Lúc ấy bà Maynooth và cô con con gái
về đến nhà. Bà Maynooth muốn ghé lại chỗ cậu con trai để chúc cậu ngủ
ngon, nhưng cánh cửa phòng đã được khóa chặt bên trong; mặc cho người ta
gào thét, đập cửa, không một ai lên tiếng. Thấy vậy người mẹ hô hoán
lên, bắt người nhà phải phá cửa. Chàng thanh niên xấu số đang nằm gục
dưới sàn nhà, ngay cạnh chiếc bàn. Đầu anh ta bị một viên đạn súng lục
bắn thủng, trông thật khủng khiếp. Nhưng rất kỳ lạ là trong phòng không
thấy một thứ vũ khí nào hết.
Trên bàn có hai tờ ngân phiếu trị
giá 10 bảng Anh và 17 đồng bảng Anh với 10 silinh, bằng bạc có, bằng
vàng có. Những đồng bạc được xếp thành từng chồng nhỏ với từng loại giá
trị khác nhau. Bên cạnh những đồng bạc là một tờ giấy có ghi những con
số và ngang hàng với những con số đó là tên những người bạn cùng câu lạc
bộ của Adair. Từ dữ kiện này có thể rút ra một nhận xét :
Trước khi chết, chàng trai đã tính toán những ván thua, thắng bạc của mình.
Phần 2:
Sau
khi nghiên cứu kĩ các dữ kiện, công việc càng trở nên rối rắm, mù mịt
hơn. Một điều làm chúng ta khó hiểu : vì sao chàng trai phải khóa chặt
cửa từ bên trong? Thực ra kẻ giết người cũng có thể khóa cửa, rồi trèo
qua cửa số để tẩu thoát.
Nhưng dưới những cánh cửa sổ là những
bồn hoa hồng lại không hề bị dẫm nát; hơn nữa từ cửa sổ đến mặt đất phải
đến 20 foot. Không một cây hoa nào bị giầy xéo, làm nát. Ngay cả lớp
đất giữa nhà và con đường cũng không hề có một dấu vết nào. Rõ ràng là
chính Adair đã tự tay khóa cửa. Nhưng sao cái chết lại đột ngột dội vào
đầu anh ta? Cứ giả thiết rằng tên sát nhân đã bắn qua cửa sổ, thì đó
phải là một phát súng rất đặc biệt, vì chỉ bằng một viên đạn súng lục đã
giết chết chàng trai ngay lập tức với một khoảng cách quá xa như vậy
thì đâu phải chuyện dễ dàng? Hơn nữa, Park Lane là một đường phố nhộn
nhịp, đông người qua lại; cách nhà 100 acđơ có một trạm xe ngựa. Không
một người nào nghe thấy tiếng súng nổ. Vậy mà, có một người bị ám hại
nằm xuống chỉ với một viên đạn súng lục bắn xuyên thủng đầu? Xét theo
vết thương thì chính viên đạn kia là nguyên nhân gây ra tử vong. Bối
cảnh vụ án đầy bí ẩn ở Park Lane là như vậy! Một vụ giết người có ẩn số
đầy bí hiểm bởi thiếu hoàn toàn những nguyên do xác đáng, lôgic. Anh bạn
trẻ Adet không hề có địch thủ, còn tiền nong cũng như giấy tờ quý giá
khác thì không hề suy suyển.
Suốt ngày tôi suy đi, nghĩ lại trong
óc tất cả những dữ kiện ấy, với tham vọng cố đặt ra cho nó một giả
thiết có phần nào phù hợp và đủ sức thuyết phục.
Tôi cố gắng tìm
ra “điểm ít khả năng bị bác bỏ nhất” điều mà người bạn xấu số của tôi
luôn luôn lấy làm kim chỉ nam cho các công cuộc khám phá. Tôi thành thật
thú nhận mình hoàn toàn không đạt được ý đồ đó.
Buổi chiều tôi
thơ thẩn, lang thang trong công viên: khoảng 18 giờ, bỗng dưng tôi đi
đến góc phố giữa đường Park Lane và đường Oxford không hề có ý định
trước. Tôi thấy một nhóm người vô công rồi nghề đang túm năm tụm ba,
nhòm ngó vào một chiếc cửa sổ ngôi nhà đã xảy ra vụ án mạng đầy bí ẩn.
Một gã đàn ông cao, gầy đeo kính râm to, - tôi nghĩ chắc là một thám tử
giả dạng - đang thử nêu một giả thiết về án mạng, những người tò mò bao
quanh ông ta chật cứng, chăm chú lắng nghe. Tôi cũng định xán lại, nhưng
khi nghe loáng thoáng những nhận định, phán đoán ngu xuẩn, tôi có cảm
giác kinh tởm và thối lui. Vô tình tôi đụng phải một ông già gù lưng
đứng phía sau, mấy cuốn sách mà ông ta đang kẹp nách bị rơi ra. Trong
lúc cúi xuống nhặt giúp mấy cuốn sách cho ông lão, tôi chợt đọc thấy một
tên sách “Sự ra đời và việc sùng bái cỏ cây”. Tôi thoáng nghĩ : thật là
một con mọt sách tội nghiệp; chắc vì để kiếm sống, hoặc vì yêu thích
nghệ thuật, nên đã cố sưu tầm những cuốn sách quý hiếm. Tôi định nói vài
câu xin lỗi cho sự vô tình của mình đã làm rơi những vật mà chủ nhân
của nó nâng niu, trân trọng; nhưng ông già càu nhàu, tức tối và khinh
khỉnh quay đi. Chỉ một loáng cái lưng gù gù và bộ râu quai nón bạc trắng
của ông đã lẩn vào đám đông.
Những quan sát ở ngôi nhà 427 phố
Park Lane đã giúp tôi được chút ít trong công việc khám phá lời giải đáp
mà tôi quan tâm. Ngôi nhà được ngăn cách với đường phố bằng một bức
tường thấp, trên tường có chăng dây thép. Dây thép cao chưa đến 5 foot.
Mọi người dễ dàng lọt được vào vườn. Nhưng trèo lên cửa số thì khó thực
hiện được, vì không có ống thoát nước, không hề có một cái gờ nào nhô
ra, cho nên ngay cả một nhà thể thao điêu luyện nhất cũng không thể trèo
lên theo bức tường được.
Càng thấy mơ hồ hơn, tôi quay về phố
Kensington để về nhà. Tôi bước vào phòng mình chưa đầy 5 phút thì người
hầu gái đã báo với tôi là có một người khách muốn gặp tôi. Tôi thật sửng
sốt và ngạc nhiên, vì đó không phải ai xa lạ, mà chính là ông già gù
gù, thích sưu tầm sách quý tôi gặp lúc chiều. Bộ tóc bạc phau, trùm gần
kín khuôn mặt nhăn nheo, nhọn hoắt của ông. Ông kẹp ở nách có đến một tá
những cuốn sách loại quý :
- Chắc ngài rất ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi?
- Ông ta hỏi với giọng the thé rất kì dị.
Tôi thú nhận là ông ta đoán đúng.
-
Ngài thấy không, tôi là một người lịch sự. Tôi lững thững đi theo con
đường mà ngài đi, tôi chợt thấy ngài bước vào ngôi nhà này. Tôi tự nhủ
với mình là cần ghé lại gặp con người lịch thiệp kia để xin lỗi. Nếu tôi
có thô thiển lố bịch với ngài, thì thú thật tôi cũng không có ý định
làm cho ngài bực dọc. Tôi mang ơn ngài rất nhiều, vì ngài đã hạ cố cúi
nhặt giúp tôi những cuốn sách.
- Chuyện nhỏ nhặt ấy, không nên
bận tâm làm gì. - Tôi đáp. - Ngài cho phép tôi được hỏi, làm sao ngài
biết được tôi là người như thế nào?
- Tôi cũng xin mạnh dạn nói
với ngài rằng là hàng xóm láng giềng với ngài. Tiệm sách bé nhỏ của tôi
nằm ở góc phố Church, tôi rất hân hạnh nếu được ngài ghé lại chơi. Có lẽ
ngài cũng là người ham mê sách? Tôi xin giới thiệu với ngài đây là cuốn
“Những giống chim ở British”, “Catullus”, “Cuộc chiến tranh thiêng
liêng”. Ngài mua đi, tôi sẵn sàng bán giá rẻ. Năm tập này, vừa vặn đủ
lấp kín chỗ trống ở ngăn thứ hai tủ sách của ngài. Tôi thấy hình như giá
sách của ngài không được đẹp mắt lắm thì phải, thưa ngài?
Tôi
ngoái cổ để nhìn lại giá sách, khi quay lại thì tôi không thể tin ở mắt
mình được nữa: Sherlock Holmes đang đứng ngay bên chiếc bàn của tôi và
đang cười. Tôi khuỵu xuống vài giây.
Tôi ngơ ngác nhìn anh, và
sau đó thì, có lẽ đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi đã bị
ngất. Tôi chỉ mang máng nhớ là có một đám mây xám đang nhập nhòa trước
mắt. Khi đám mây tan biến đi, tôi thấy cổ áo của mình bị mở phanh ra và
tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi rượu Cô nhắc. Holmes vẫn đứng đấy trên
tay cầm chai rượu, đầu hơi cúi xuống.
- Watson thân mến! - Một
giọng nói khá thân thuộc cất lên - nghìn lần tớ xin lỗi cậu. Tớ không
ngờ cái ấy lại gây cho cậu một xúc động mạnh như vậy.
Tôi nắm lấy tay anh.
-
Holmes! - Tôi thốt lên. - Có phải thật cậu không? Chẳng lẽ cậu vẫn còn
sống ư? Không thể nào tin được, làm sao cậu vượt lên được cái thác nước
khủng khiếp ấy?
- Hãy đợi chút đã. - Anh nói. - Không biết cậu đã
bình tĩnh lại chưa? Rõ ràng sự xuất hiện quả đường đột của tớ đã làm
cho cậu choáng váng.
- Tớ đã bình tĩnh lại rồi. Nhưng thú thật
với cậu, tớ không còn tin vào mắt mình nữa. Thật hú vía! Chẳng lẽ chính
cậu đấy ư? Không phải ai khác đang đứng trong phòng tớ đấy chứ?
Tôi lại nắm lấy cánh tay anh và bóp nắn cánh tay gân guốc.
-
Đúng rồi, chính là cậu rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, - Tôi tiếp. -
Bạn yêu mến của tôi ơi! Tớ hạnh phúc biết bao khi được gặp lại cậu! Hãy
ngồi xuống cái đã, và hãy kể vắn tắt cho tớ nghe, bằng cách nào cậu
thoát khỏi vực thẳm kia?
Holmes ngồi xuống đối diện với tôi, với
dáng điệu quen thuộc như xưa, anh lấy thuốc ra châm hút. Anh vẫn đang
mặc chiếc áo đã sờn với dạng của người bán sách cũ, nhưng những thứ dùng
để cải trang như bím tóc bạc, túi đựng sách cũ.... đã nằm trên bàn. Tôi
có cảm giác anh gầy hơn xưa, cái nhìn của anh có vẻ sắc sảo hơn. Khuôn
mặt trắng xanh nhợt nhạt của anh chứng tỏ trong thời gian qua, anh đã
nếm nhiều khổ cực, đã trải qua một chặng đường đời khắc khổ không có lợi
cho sức khỏe.
- Watson, được duỗi thẳng người ra thật khoan khoái! - Anh lên tiếng,
-
Một người cao lớn như tớ, không dễ dàng gì mà rút đi một foot; và bắt
buộc giữ tình trạng đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Bây giờ, chúng ta sẽ đề
cập đến những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng.... Tớ muốn cầu cứu sự giúp đỡ
của cậu, nếu cậu không phản đối. Cả hai chúng mình sẽ phải thức trắng
suốt đêm nay với một công việc nặng nhọc đầy nguy hiểm. Tốt nhất, nên để
chuyện cuộc phiêu lưu của tớ đến lúc công việc kia giải quyết xong
xuôi.
- Nhưng tớ đang cháy ruột, cháy gan vì tò mò. Holmes, tớ nóng lòng được cậu kể ngay bây giờ.
- Cậu có đồng ý đi với mình đêm nay không?
- Đi bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào, tùy cậu.
-
Hoàn toàn như ngày xưa. Chúng ta vẫn còn kịp giải lao cho thư thả trước
lúc lên đường.... Nào, bây giờ tớ bắt đầu câu chuyện về cái thác nước.
Nguyên nhân đơn giản làm cho tớ lên được khỏi vực thẳm, là tớ chưa hề bị
rơi xuống đó.
- Cậu không bị rơi xuống vực à!
- Đúng thế,
Watson ạ, không hề bị rơi. Thế nhưng, mẩu thư tớ viết cho cậu hoàn toàn
là sự thật. Khi bóng dáng độc ác của giáo sư Moriarty xuất hiện trên
lối mòn chật hẹp, chặn ngăn con đường giải thoát duy nhất của tớ, lúc ấy
nghĩ, mọi chuyện đối với tớ như vậy đã chấm dứt. Trong đôi mắt màu nâu
của hắn, tớ đọc được quyết định không thể nào lay chuyển nổi về số phận
của tớ. Tớ trao đổi với hắn vài ba câu, hắn lịch sự cho phép tớ được
viết một mẩu tin ngắn ngủi, cậu đã nhận được bức thư. Tớ để lá thư cùng
hộp thuốc và cây gậy lại, còn tự mình đi theo lối mòn tiến về phía
trước. Moriarty đi theo sau tớ từng bước một. Khi đến đoạn cuối cùng của
lối mòn, tớ dừng lại, bởi có đi tiếp cũng không còn đường nào hết. Hắn
không thèm lấy ra một thứ vũ khí gì, vội lao vào tớ và hắn dùng đôi tay
dài ngoằng của mình chộp lấy tớ. Hắn biết, cuộc đời của hắn đã tới số,
hắn chỉ cần thực hiện một việc là trả thù tớ. Không thèm buông ra, tớ
với hắn giằng co ngay bên mép vực thẳm. Nhưng, nhờ tớ biết vài miếng võ
Judo Nhật Bản, khoản này đã giúp tớ không ít trong công việc, tớ kịp
thoát ra khỏi người hắn. Hắn thét lên nghe thật man rợ, loạng choạng vài
giây, hai tay chới với trong không trung. Mặc dù hắn cố gắng hết sức,
nhưng vẫn không thể giữ nổi thăng bằng và ngã xuống. Đứng trên bờ vực
thẳm, tớ nhìn theo rất lâu xem hắn bị rơi xuống vực như thế nào? Tớ thấy
hắn va vào gờ của một tảng đá và chìm nghỉm dưới nước.
Phần 3:
Tôi lắng nghe Holmes kể với tâm trạng hồi hộp vô cùng.
Còn anh vẫn thản nhiên, vừa kể vừa thả khói thuốc một cách khoan thai.
-
Nhưng còn các vết chân! - Tôi thốt lên. - Chính tớ, bằng mắt mình đã
trông thấy rõ rành rành hai dãy bước chân cùng đi lên theo lối mòn, dấu
quay lại không hề có.
- Chuyện ấy xảy ra như thế này. Trong giây
phút, khi giáo sư Moriarty rơi xuống vực; tớ hiểu rằng, vận may đã đến
với tớ một cách không ngờ. Tớ biết rằng không phải chỉ có một mình
Moriarty đang tìm cách giết tớ. Ít nhất phải có ba tên đồng bọn, cái
chết của thủ lĩnh sẽ đốt cháy trong tim bọn nó một sự khao khát trả thù.
Đó là một lũ người cực kỳ nguy hiểm. Trong tương lai, sẽ có một tên nào
đó trong bọn chúng thực hiện mưu đồ làm hại tớ. Nếu chúng nghĩ rằng tớ
đã chết, thì chúng sẽ hành động trắng trợn hơn, ít đề phòng và dễ dàng
để lộ tung tích, lúc ấy, sớm hay muộn rồi tớ cũng có ngày tiêu diệt được
chúng nó. Chỉ đến lúc này, tớ mới thông báo cho mọi người biết tớ vẫn
còn sống! Bộ não của con người làm việc rất nhanh, Moriarty chưa kịp
xuống tới đáy của vực nước Reichenbach tớ đã nghĩ xong kế hoạch đối phó
rồi. Tớ đứng lên và quan sát bức tường đá sừng sững ở sau lưng. Trong
đoạn miêu tả về cái chết tang thương của tớ, mà tớ rất thú vị đọc sau đó
vài tháng, cậu cho rằng : bức tường đá hoàn toàn dựng đứng và trơn
tuột. Không phải đúng hết như vậy. Trên tảng đá có vài chỗ gờ nhô ra, có
thể đặt chân, bám vào được. Ngoài ra dựa vào các dấu hiệu, tớ tin sẽ có
một cái hốc nào đấy ở trên cao.... Mỏm đá khá cao, rõ ràng không thể
nào trèo lên đỉnh được, và cũng không thể đi theo lối mòn ẩm ướt mà
không để lại dấu vết. Thực ra tớ cũng có thể mang giày cho gót lộn ngược
cũng được, như tớ đã từng làm trong những trường hợp tương tự; nhưng ba
dấu giày cùng đi theo một hướng, không thể tránh khỏi sự nghi ngờ rằng
cố ý đánh lừa được.
Vì vậy tốt nhất cứ liều leo lên cao. Điều này
không phải là dễ, thác nước đang réo ầm ĩ phía dưới. Tớ có cảm giác
tiếng nói của Moriarty đang gọi tớ từ đáy vực thẳm vọng đến bên tai. Đôi
lúc, khi một nắm cỏ nằm lại trên bàn tay, hoặc bàn chân bị trượt theo
cái gờ đá ẩm ướt láng lầy, tớ nghĩ rằng mọi việc đã kết thúc. Nhưng tớ
vẫn tiếp tục bò lên, cuối cùng tớ bò lên chỗ nứt lở khá sâu mọc đầy rêu
xanh. Ớ đây, tớ có thề nằm duỗi tay, duỗi chân mà không sợ ai nhìn thấy,
tớ nghỉ một lát cho sảng khoái. Tớ đã nằm ở đấy, trong lúc đó, cậu và
những người được cậu mời tới, đã hoài công dựng lên bức tranh về cái
chết của tớ.
Cuối cùng, sau khi đã rút ra kết luận hoàn toàn sai
lầm về những diễn biến đã xảy ra, cậu quay về khách sạn, còn tớ nằm lại
một mình. Tớ hình dung cuộc phiêu lưu của tớ đã kết thúc, nhưng một việc
khá bất ngờ đã xảy ra, chứng tỏ là có một chuyện không kém phần ly kỳ
đang chờ đợi tớ. Có một hòn đá to vỡ ra chợt bay vèo qua đầu tớ, rơi
xuống lối mòn rồi rơi xuống vực. Lúc đầu tớ cứ nghĩ đó là một chuyện
tình cờ. Nhưng, sau khi nhìn lên trên, tớ trông thấy một cái đầu của
người đàn ông in trên nền trời đang tắt dần nắng. Đúng giây phút ấy, một
hòn đá khác bay tới ngay sát cái hõm mà tớ đang nằm, cách đầu tớ chỉ
vài inch. Tình thế đối với tớ đã quá rõ. Moriarty không phải chỉ đến một
mình. Tên đồng bọn của hắn cũng khá nguy hiểm, thằng này chắc đứng cảnh
giới, khi thằng Moriarty xông vào tấn công tớ. Từ xa, hắn đã chứng kiến
cái chết của thủ lĩnh mình và thấy kẻ thù của hắn đã thoát nạn. Sau khi
chờ đợi một lúc, hắn chạy vòng lên đỉnh bằng hướng khác và mưu toan
thực hiện việc mà Moriarty đã không thành công.Watson, tớ suy tính chuyện này rất nhanh. Sau khi nhìn quanh, tớ lại
trông thấy bộ mặt dữ tợn của hắn và hiểu rằng, hắn là kẻ đã ném thêm
viên đá nữa. Tớ quyết định bò xuống đến lối mòn. Tớ không biết, trong
trạng thái bình thường, tớ có làm nổi chuyện ấy hay không? Tuột xuống
khó gấp cả nghìn lần lúc leo lên. Nhưng không hơi đâu mà đắn đo, suy
tính. Khi đó tớ đang treo người, hai tay bám vào mép của khe đá. Một
viên đá thứ ba bay vù qua đầu tớ. Tụt được nửa đường, bỗng tớ trượt chân
một cái, nhưng dẫu sao, tớ cũng đã đến lối mòn. Người bị rách bươm,
thấm đầy máu, ba chân bốn cẳng tớ cắm đầu cắm cổ chạy. Trong đêm tối tớ
chạy xuyên rừng, xuyên núi 10 dặm và một tuần sau tớ có mặt ở Flôrenx và
tin chắc rằng : không một người nào trên đời này biết được số phận của
tớ.
Chỉ một người biết được bí mật, đó là anh trai tớ - Mycroft.
Nghìn lần xin lỗi cậu, Watson. Nhưng tớ bắt buộc phải làm như vậy, cứ để
mọi người tưởng tớ chết thật là được rồi. Nếu không, không bao giờ cậu
có thể viết lên những điều khẳng định chắc chắn về cái chết của tớ, nếu
cậu tin rằng đó là sự thật. Trong ba năm ấy, đôi lần tớ định viết thư
cho cậu, nhưng mỗi lần như vậy, tớ đành phải dằn lòng, vì sợ rằng mối
mật thiết quá ư chặt chẽ giữa cậu và tớ sẽ dễ làm cho cậu có sơ suất, và
sẽ lộ điều bí mật của tớ. Vì sao chiều nay tớ phải tránh mặt cậu, khi
cậu làm rơi sách của tớ? Tớ thật liều lĩnh, nếu như cậu kêu lên vì kinh
ngạc hoặc vì vui mừng, mọi người sẽ nhìn chằm chằm vào tớ chuyện đó sẽ
dẫn đến hậu quả không thể cứu chữa được. Còn phải nói cho anh Mycroft,
thì cực chẳng đã tớ mới thú thật mà thôi, bởi tớ rất cần một món tiền để
tiêu sài.
Công việc ở Luân Đôn giải quyết rất tệ, tệ hơn là tớ
mong đợi. Sau khi ra tòa, trong băng của Moriarty, còn hai tên đang nằm
ngoài vòng pháp luật. Đó là hai tên cướp rất nguy hiểm, cả hai thằng đều
là kẻ tử thù của tớ. Vì thế, tớ đã đi chu du trong hai năm ở vùng
Tibet, và đến thăm thành phố Lhassa, thậm chí còn bỏ cả mấy ngày đến
thăm giới tu hành tăng lữ. Có lẽ cậu đã đọc bài báo nói về vụ chấn động
lớn của một người Na Uy, mang tên Sigerson, nhưng cậu làm sao có thể
nghĩ rằng, bài ấy là của bạn mình. Tớ còn đi thăm vài nơi ở vương quốc Ả
Rập, chuyến đi thăm do tớ đề nghị lên ngài Bộ trưởng ngoại giao.
Sau
khi quay về Châu Âu, tớ ở lại thăm nước Pháp vài tháng, ở đây tớ tham
dự vào công cuộc nghiên cứu, phân tích những chất lấy từ một vùng than
đá. Việc này tớ làm ở một phòng thí nghiệm thuộc miền Nam nước Pháp -
Montpellier, sau khi kết thúc tốt đẹp thí nghiệm và biết được hiện nay ở
Luân Đôn chỉ còn sống sót một kẻ thù không đội trời chung của tớ, tớ
suy tính chuyện trở về. Lúc đó tớ nghe tin vụ ám sát đầy bí ẩn ở phố
Parka Leyn và nóng lòng ra đi. Tớ cũng đã nghiên cứu kỹ vụ này rồi. Đáp
số của vụ án mạng sẽ giúp tớ thực hiện ý định của riêng mình. Thế là, tớ
vội vã quay về Luân Đôn. Tự tớ đến hẻm Baker, và đã làm cho bà Hudson
bị một phen hoảng sợ, lên cơn thần kinh. Anh trai tớ vẫn trông nom căn
phòng và mọi giấy tờ vẫn nguyên vẹn như lúc tớ ra đi. Ngày hôm nay, lúc
14 giờ, tớ đã ghé vào căn phòng cũ của mình, ngồi vào chiếc ghế bành
thân quen, và chỉ mong ước một điều duy nhất là làm sao cho người bạn cũ
Watson của mình được cùng ngồi ung dung trong một chiếc ghế bành khác
mà anh ta vẫn thường ngồi.
Câu chuyện kinh hoàng tôi đã được nghe
trong buổi tối tháng tư là như vậy đấy. Tôi khó lòng tin đó là sự thật.
Mặc dù chính mắt tôi đã trông thấy thân hình cao, gầy và khuôn mặt
thông minh, cương nghị của người bạn mà tôi nghĩ rằng, không bao giờ tôi
còn gặp lại. Không biết bằng cách nào, Holmes đã rõ cái chết của vợ
tôi, sự thương cảm được thể hiện trong giọng nói của anh :
- Làm việc! Đó là cách tốt nhất để khuây khỏa nỗi đau khổ, Watson yêu quí - Anh động viên an ủi tôi.
-
Khuya hôm nay, có công việc đang chờ chúng mình. Người có diễm phúc
hoàn thành sứ mệnh một cách tốt đẹp có thể mạnh dạn tuyên bố rằng, anh
ta đã sống một cuộc đời không phải là uổng phí, vô ích.
Tôi đã mất công để thuyết phục anh giải thích cho rõ.
-
Đến sáng mai, cậu sẽ được nghe, được thấy đầy đủ, - Anh đáp. - Còn bây
giờ không cần nói tới chúng ta còn khối chuyện để tâm sự. Cậu biết đấy,
đã ba năm rồi chúng mình không được nhìn thấy nhau. Hy vọng chúng ta sẽ
tâm sự đến 21 giờ 30 phút, rồi sẽ lên đường, đón nhận một cuộc phiêu lưu
đầy thú vị trong một ngôi nhà bỏ trống.
Như ngày xưa, khi tôi
ngồi cùng với anh trong một cỗ xe đúng giờ đã định, tôi sờ soạng khẩu
súng ngắn nằm trong túi, tim đập liên hồi vì hồi hộp đón chờ những sự
kiện chưa lường trước được.
Holmes thì trầm ngâm, đăm chiêu suy
nghĩ. Khi ánh sáng của ngọn đèn đường hắt vào khuôn mặt khắc khổ của
anh, tôi thấy anh khẽ ngước đôi lông mày, còn cặp môi mỏng thì mím chặt,
chứng tỏ anh đang suy nghĩ rất căng thẳng. Tôi không biết, chúng tôi
đang săn đuổi con thú ranh mãnh nào đây trong khu rừng rậm của thế giới
tội phạm tại Luân Đôn. Nhưng tất cả dáng điệu của một người thợ săn đầy
lão luyện như báo cho tôi rằng, cuộc trinh thám này sẽ là cuộc trinh
thám nguy hiểm nhất, ác liệt nhất. Nụ cười mỉa mai thường xuyên xuất
hiện trên gương mặt đăm chiêu của bạn tôi không hứa hẹn một điều gì tốt
đẹp cho con thú chúng tôi đang săn đuổi.
Tôi đinh ninh rằng, thế
nào chúng tôi cũng ghé về hẻm Baker, nhưng Holmes lại ra lệnh cho người
xà ích dừng xe ở góc phố Cavendish. Trong lúc bước xuống xe, anh cẩn
thận quan sát, nhìn soi mói vào từng ngóc ngách; kiểm lại xem có cái
đuôi nào bám sau không. Chúng tôi bước vào một cái ngách trông rất lạ.
Holmes luôn luôn làm cho tôi thán phục về sự hiểu biết tường tận khá
nhiều góc hẻm ở Luân Đôn. Anh ung dung tự tin bước vào một góc tối đầy
chuồng ngựa, đi qua những cái sân hôi hám, nhớp nhúa; tôi không thể tin
sự tồn tại có mặt của những thứ ấy. Cuối cùng chúng tôi lọt vào một cái
hẻm chật hẹp, có hai dãy nhà cũ kỹ, tối tăm ở hai bên. Đường này dẫn
chúng tôi ra phố Manchester, rồi đến phố Blandford. Holmes nhanh nhẹn
nhảy sang một lối hẹp khác, đi qua một hộc cửa bằng gỗ, lọt vào cái sân
vắng vẻ. Anh dùng chìa khóa mở cửa sau một ngôi nhà. Chúng tôi bước vào,
ngay lập tức anh khóa trái cửa lại.
Dù trời rất tối, nhưng tôi
hiểu ngay là ngôi nhà này không có người ở. Nền nhà không lót thảm, kêu
lên răng rác; lạo xạo dưới phân, tôi vô ý chạm phải những bức tường,
nhiều tờ giấy dán tường bị bong ra treo trên đầu chúng tôi.
Những
ngón tay gầy, lạnh lẽo của Holmes bóp chặt bàn tay tôi, anh dẫn tôi
theo một hành lang dài, cuối cùng trước mắt chúng tôi hiện ra một cái
vòm cửa sổ nửa cong, nửa thẳng đứng kín đáo, nằm trên chỗ cửa ra vào.
Bỗng dưng Holmes quay về bên phải, và chúng tôi lọt vào một căn phòng
hình vuông rộng lớn nhưng bị bỏ hoang; các góc, xó hoàn toàn tối om,
nhưng ở giữa phòng thì được lờ mờ ánh sáng ngọn đèn đường. Cạnh cửa sổ
không có một ngọn đèn nào, còn tấm kính trên cửa sổ thì bị một lớp bụi
dày bao phủ. Chúng tôi nhận ra nhau khá chật vật.
Holmes đặt tay lên vai tôi, và cúi sát môi vào tai tôi.
- Cậu có biết chúng ta đang ở đâu không? - Anh thầm thì hỏi.
- Dường như trong hẻm Baker, - Tôi vừa nhìn vào tấm kính mờ đục vừa nói.
- Đúng như vậy, chúng ta đang đứng ở nhà Kem đem, đối diện với căn buồng trước kia của chúng mình.
- Chúng mình đến đây làm gì?
-
Đến đây để nhìn hình dạng tuyệt vời của ngôi nhà kia. Không biết có nên
tiến sát vào cánh cửa sổ không? Nhưng hãy thật thận trọng, đừng để ai
phát hiện ra cậu. Cậu thử nhìn vào cửa sổ của buồng cũ chúng mình đi,
nơi đó đang mở ra những cuộc trinh thám đầy thú vị. Cậu thử xem, tớ đã
mất khả năng làm cậu kinh ngạc chưa, sau ba năm trời phiêu bạt?
Tôi
nhẹ nhàng, cẩn tắc tiến về phía trước, nhìn vào khung cửa sổ vô cùng
thân thuộc.... Bỗng nhiên tôi thốt lên một tiếng kinh ngạc, bức rèm được
buông xuống, đèn sáng rực rỡ, có một người ngồi trên chiếc ghế bành kê ở
giữa phòng, hắt bóng rất rõ lên nền sáng của cánh cửa sổ. Từ đầu, đến
đôi vai rộng, cho đến khuôn mặt xương xương, cái đầu hơi xoay nghiêng,
tạo nên một dáng dấp mờ ảo, những bà cụ rất thích được vẽ kiểu ấy....
Không còn gì nghi ngờ, đấy chính là một bản sao hoàn hảo chính xác con
người Sherlock Holmes. Tôi kinh ngạc đến nỗi phải đưa tay lên sờ vào
người anh để khẳng định anh vẫn đứng bên cạnh tôi.
Holmes cười không thành tiếng.
- Thế nào? - Anh hỏi.
- Chuyện này khó tin được! - Tôi thì thầm nói.
- Dường như, năm tháng không cướp đi khả năng sáng tạo của mình, còn thói quen cũng không vì thế bị khô mòn, - Anh nói.
Tôi
cũng bắt gặp trong giọng nói anh một niềm vui sướng, kiêu hãnh của nhà
họa sĩ đang thưởng thức công trình tuyệt tác của mình.
- Cậu thấy có thật giống mình không?
-
Tớ nghĩ rằng, đây chính là cậu đang ngồi. Vinh dự này thuộc về ngài
Meunier ở Grenoble. Ông ta đã tạc tượng tớ trong vòng có vài ba ngày. Nó
được làm bằng sáp. Những phần còn lại tớ tự sắp đặt khi tớ quay về hẻm
Baker sáng sớm hôm nay.
- Nhưng cậu làm thế nhằm mục đích gì?
-
Tớ có nguyên nhân chính đáng. Tớ muốn một số người nào đó cứ đinh ninh
là tớ đang ngồi ở nhà, trong khi ấy, thực tế tớ lại ngồi ở một nơi khác.
- Có nghĩa là cậu nghĩ rằng, có một bọn nào đó đang rình mò căn hộ ư?
- Tớ biết, có kẻ đang rình mò căn nhà.
- Kẻ đó là ai?
-
Những kẻ thù của tớ. Cái băng đầy hấp dẫn mà tên thủ lĩnh đã vĩnh viễn
nằm chôn vùi dưới đáy thác nước Reichenbach. Cậu biết đấy, chỉ có bọn nó
mới biết chính xác là tớ vẫn còn sống. Chúng nó tin chắc, dù sớm hay
muộn rồi tớ cũng quay về căn phòng cũ của mình. Tụi nó chưa chịu từ bỏ ý
định theo dõi rình rập để hại tớ. Sáng nay chúng đã thấy tớ quay về
nhà.
- Làm sao cậu đoán được điều đó?
- Trong lúc nhìn
qua cửa sổ, tớ nhận ra một thằng thám thính của chúng. Tên của hắn là
Parker, chuyên ăn cướp, giết người, đồng thời còn là một nhà tổ chức
thiên tài. Tớ chú ý đến thằng này ít thôi. Một thằng khác làm cho tớ chú
ý nhiều hơn, đáng gờm hơn là thằng núp sau lưng tên Parker. Đó là kẻ
thân cận nhất của tay Moriarty. Chính hắn đã dùng đá ném tới tấp vào tớ
từ ngọn núi đá. Hắn là một tên tội phạm ranh ma, xảo quyệt nhất, nguy
hiểm nhất hiện nay ở Luân Đôn. Chính hắn đêm nay sẽ đi săn tớ, và hắn
đâu ngờ rằng, chúng ta lại săn hắn.
Kế hoạch của Holmes dần dần
làm cho tôi sáng tỏ. Từ chỗ ẩn nấp thuận tiện này, chúng tôi có khả năng
theo dõi tất cả những ai có ý đồ theo dõi chúng tôi. Dáng dấp bóng
người thấp thoáng bên cửa sổ là một miếng mồi, còn chúng tôi là những
tay thợ săn.
Vai kề vai, chúng tôi đứng lặng im trong bóng tối chăm chú ngắm nhìn
những bóng người lượn qua lượn lại. Đêm ấy, thời tiết rất xấu, trời trở
lạnh tê tái, gió thổi dọc theo dãy phố một cách dữ dội, gay gắt. Người
đi lại ngoài đường khá đông, hầu như ai bước đi cũng rất vội, họ đều cố
kéo cơm áo hoặc mũ che kín mũi cho đỡ lạnh.
Phần 4:
Tôi có cảm giác một
người nào đó cứ đi qua đi lại sát ngôi nhà, đặc biệt có hai người làm
cho tôi nghi ngờ hơn cả. Họ làm như thể tránh gió, nên bước vào một cánh
cổng cách chúng tôi không xa. Tôi định bụng sẽ báo cho Holmes biết,
nhưng anh trả lời tôi với một giọng bực bội rồi tiếp tục theo dõi động
tĩnh ngoài đường. Thỉnh thoảng anh co chân cho đỡ mỏi hoặc lấy ngón tay
gõ gõ vào bức tường. Tôi thấy anh có vẻ không vui, hình như sự việc xảy
ra không hoàn toàn đúng như kế hoạch. Trời chuyển về khuya, đường phố
tĩnh mịch vắng vẻ Holmes đi lại trong phòng, anh bồn chồn lo lắng, hồi
hộp. Vừa máy miệng định nói một điều gì nhưng tôi lại một lần nữa sửng
sốt, kinh ngạc.
- Bức tượng cử động kìa! - Tôi thốt lên.
Rất rõ, bóng hình kia quay về phía chúng tôi, không phải bên hông, mà là quay hẳn lưng lại.
Năm
tháng không làm cho tính cách của Holmes thay đổi chút nào, anh vẫn là
người điềm đạm, nhẫn nại, luôn thể hiện trí thông minh, đầu óc suy luận
sắc sảo, nhìn nhận rất tinh tế.
- Phải làm như thật, - Anh đáp. -
chẳng lẽ tớ lại là một kẻ ngu ngốc không có bộ não hay sao? Đặt trong
phòng một hình nộm bất động không xua được ruồi thì quả là rất lộ liễu,
phải chăng nhờ nó mà có thể đánh lừa được những kẻ ranh ma nhất Châu Âu
ư? Chúng mình thu lu trong xó xỉnh này đã hai giờ đồng hồ, trong lúc đó
bà Hudson đã thay đổi vị trí bức tượng tám lần. Cứ mười lăm phút một
lần, với điều kiện là bà sẽ không để in bóng mình cho người ngoài trông
thấy.
Bỗng nhiên anh im lặng, nín thở. Trong cảnh nhá nhem, tôi trông thấy anh rướn cổ lên trong tư thế chờ đợi rất căng thẳng.
Đường
phố đã hoàn toàn vắng ngắt. Có lẽ, hai tên đứng nấp trong hẻm vẫn còn.
Nhưng tôi không tài nào nhìn thấy chúng. Xung quanh tôi một màn đen và
sự im ắng bao trùm.
Trong bóng đêm, màu vàng của cánh cửa sổ được
chiếu sáng rực cùng với bóng của hình người ngồi giữa phòng, càng nổi
bật rõ nét. Không gian im ắng đáng sợ, tôi nghe thấy iếng thở khò khè
của Sherlock, chắc anh rất hồi hộp cho kế hoạch của mình. Bỗng nhiên anh
ấn sâu tôi vào góc căn phòng, chỗ tối nhất, và lấy tay bịt miệng tôi
lại, bằng cách này anh muốn nhủ tôi phải tuyệt đối im lặng. Lúc này, tôi
thấy những ngón tay của anh run run.
Chưa bao giờ tôi được chứng
kiến anh bị kích động, căng thẳng đến tột độ như vậy. Đường phố vẫn
tạnh ngắt, yên ả không có gì xẩy ra hết. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy một
âm thanh khe khẽ, rì rầm vang đến tai tôi, âm thanh mà đôi tai cực nhậy
của Holmes đã nghe thấy trước. Tiếng động không phải phát ra từ hẻm
Baker, mà chính trong ngôi nhà chúng tôi đang nấp. Cửa ra vào được mở
ra, rồi đóng lại. Có tiếng bước chân rón rén vang lên khe khẽ ngoài hành
lang. Người đi cố giữ cho bước chân khỏi kêu to, nhưng trong căn nhà
hoang này nó vẫn dội lên những âm thanh khá to.
Holmes đứng dựa
sát vào tường, tôi cũng làm theo và nắm chặt khẩu súng ngắn, căng mắt
nhìn vào bóng tối. Tôi nhận ra lờ mờ bóng dáng một người đàn ông, bóng
đen hơi sẫm hơn so với tấm khung hình chữ nhật của cánh cửa đã mở. Hắn
đứng im ở đó chừng một phút, rồi nhảy xuống và rón rén tiến về phía
trước. Mọi cử chỉ hành động của hắn đều chứa đựng một mối đe dọa. Thân
hình dữ tợn của hắn đứng cách chúng tôi có ba bước.
Tôi lên gân cốt, chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công. Nhưng hắn không hề biết có chúng tôi ở đây.
Hắn
đi ngang qua chỗ chúng tôi đứng, suýt nữa thì chạm phải nhau. Hắn rón
rén tiến đến gần cửa sổ rất thận trọng không hề một tiếng động, hắn nhấc
cánh cửa lên cao nửa foot.
Khi hắn trèo lên để mở chốt cửa, ánh
sáng đèn đường hắt qua tấm kính bẩn thỉu soi rõ bộ mặt hắn, một bộ mặt
dễ làm cho chúng ta kích động cao độ. Cặp mắt cháy lên một cách man rợ,
nét mặt biến dạng kinh khủng.
Hắn không còn trẻ trung gì nữa, có
một chiếc mũi quặp như mỏ diều hâu, trán hói khá cao, bộ râu bạc trắng
rất dài. Mũ của hắn được kéo xuống tận gáy, chiếc áo bành tô hở cúc, để
hở ra một khoảng trắng trước ngực - chiếc yếm hồ trắng. Bộ mặt rám nắng,
đen đủi hằn đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong tay hắn cầm một vật đại
loại như cây ba-toong, nhưng khi hắn đặt xuống nền nhà, nó phát ra một
tiếng kêu “keng” của kim khí. Hắn lôi từ trong túi ra một vật gì đó khá
lớn : hắn loay hoay với đồ ấy chừng vài phút; cho đến khi một âm thanh
kim khí phát ra, có lẽ, hắn kéo một chiếc lò xo hay cái then chốt.
Ngồi
bằng đầu gối, hắn tiến về phía trước và với tất cả sức nặng của bản
thân, hắn đè lên một đòn bẫy. Chúng tôi nghe thấy một âm thanh dài dữ
dội, có phần kêu to hơn lúc trước. Hắn đứng thẳng người lên, tôi trông
thấy trong tay hắn không phải cái gì xa lạ mà là khẩu súng săn, có cái
báng kỳ lạ, xấu xí. Hắn mở khóa, kéo cò bấm và đặt một vật gì vào bên
trong xong cài chốt lại. Hắn qùy xuống, đặt đầu nòng súng lên bệ cửa sổ,
bộ râu dài của hắn chấm sát tận nòng, cặp mắt hắn long lanh dữ tợn. Hắn
đặt súng tỳ vào vai và thở ra khoan khoái : tấm bia đang đứng trước mặt
hắn - tấm bia kỳ lạ, bóng dáng đen đen soi rõ trên nền sáng. Hắn lưỡng
lự một lát sau đó đặt tay lên cò súng, một tiếng “vù” là lạ phát ra,
tiếp theo là tiếng kính vỡ loảng xoảng.
Ngay lúc đó Holmes bỗng nhảy bổ ra như một con hổ, anh chộp ngay lưng kẻ vừa bắn và quật hắn ta úp mặt xuống sàn.
Nhưng
một giây sau, kẻ bị quật ngã đã đứng dậy được, với một sức mạnh không
ngờ hắn tóm lấy cổ Holmes. Tức thì, tôi dùng báng súng nện mạnh vào đầu
kẻ hành hung, hắn ngã xuống, tôi nằm đè lên. Lúc đó Holmes thổi còi.
Ngoài đường một tốp người đã chạy tới, có hai cảnh sát quân phục đầy đủ,
cùng một vị thám tử, từ cổng chính bước vào phòng.
- Có phải Lestrade đó không? - Holmes hỏi.
- Tôi đây, thưa ngài Holmes. Tôi định tự mình sẽ giải quyết việc này. Rất vui mừng lại được gặp ngài ở Luân Đôn.
-
Sự giúp đỡ nhỏ mọn, không đáng kể của chúng tôi chắc không cản trở các
ngài? Trong một năm có ba vụ án mạng không được phát hiện, cũng hơi
nhiều đấy Lestrade ạ. Nhưng câu chuyện bí mật ở Molesey, ngài tiến hành
không đến nỗi nào.... nghĩa là ngài giải quyết vụ ấy không đến nỗi tồi.
Chúng tôi đứng lên. Còn tên hung thủ thì thở hổn hển trong cánh tay của hai viên cảnh sát lực lưỡng.
Một
đám đông những kẻ rỗi việc bắt đầu tụ tập ngoài đường. Holmes tiến đến
bên cửa sổ, đóng lại. Lestrade châm hai ngọn nến vừa mang tới, còn các
vị cảnh sát thì bật công tắc đèn pin bỏ túi. Tôi có dịp quan sát kẻ sát
nhân kỹ càng hơn.
Hắn có bộ mặt rất đàn ông, trông rất đáng ghét.
Vầng trán như một triết gia, cái cằm như của một người thích nói những
lời ngọt ngào, êm dịu. Những cái đó, chứng tỏ con người hắn cũng có một
khả năng làm những điều tốt lành, cũng như làm những điều ác độc. Nhưng
cặp mắt dữ dằn màu ánh thép, bộ lông mi rậm cái nhìn trâng tráo, chiếc
mũi quặp ác thú và những nếp hằn sâu trên trán đã tự tố cáo lên bản chất
của hắn, những dấu hiệu báo trước cho xã hội biết những dã tâm nguy
hiểm. Hắn không thèm nhìn lên bất cứ người nào trong số chúng tôi. Cái
nhìn của hắn như cắm chặt vào khuôn mặt của Sherlock Holmes, hắn nhìn
với một sự kinh ngạc và hằn học.
- Con quỷ! - Hắn lẩm bẩm. - Một con quỷ ranh ma, xảo quyệt!
-
Đại tá, - Holmes nói, và sửa lại cổ áo bị nhàu, - Những người bạn chí
cốt lại gặp nhau, như lời người xưa thường nói. Tôi chưa có dịp gặp lại
ngài sau lần ngài đã theo dõi tôi một cách trắng trợn. Ngài hẳn còn nhớ,
khi tôi nằm ở khe hở của núi đá tại thác nước Reichenbach.
Ngài đại tá có lẽ đang bị thôi miên, hắn không thể nào bứt cái nhìn ra khỏi Sherlock Holmes.
- Con quỷ, con quỷ có thật! - Hắn cứ lặp đi, lặp lại câu nói đó.
Tôi
chưa kịp giới thiệu cho các vị - Holmes lên tiếng. - Các vị biết không,
đây là ngài đại tá Sebastian Moran, một cựu sĩ quan trong đội quân của
hoàng gia đóng ở Ấn Độ, và là một thợ săn thú dữ tài ba, có một thời nổi
tiếng oanh liệt ở những vùng thuộc địa Đông phương. Tôi nghĩ, tôi không
nhầm ngài đại tá ạ, có phải về số hổ báo săn bắn được, hiện nay ngài
đang giữ kỷ lục phải không?
Tên tù binh thật vất vả lắm mới kìm
được cơn phẫn nộ, hắn tiếp tục nín thinh. Chính hắn cũng đã giống một
con hổ rồi, cặp mắt của hắn long lên dữ tợn, ria mép cũng xù lên.
-
Tôi rất ngạc nhiên vì sự đánh lừa quá ư đơn giản đã đưa một thợ săn dày
dạn kinh nghiệm vào tròng, - Holmes tiếp tục, - Đối với ngài điều này
đâu còn là mới mẻ. Chẳng lẽ, chưa bao giờ ngài buộc một con dê dưới một
gốc cây, còn ngài thì leo lên cây rậm rạp với khẩu súng săn hoặc carbin
trong tay, để chờ con cọp dẫn xác đến con mồi hay sao? Ngôi nhà bỏ trống
này là cái cây của tôi, còn ngài là con hổ của tôi. Tôi nghĩ rằng, đôi
khi ngài cũng phải dùng những phát đạn dự trữ trong trường hợp, cùng một
lúc có nhiều con hổ xuất hiện, hoặc hãn hữu cũng có đôi lúc ngài bắn
trượt chứ. Mấy vị này, - Anh nói và chỉ vào chúng tôi - là những phát
súng dự phòng của tôi. Sự so sánh của tôi chính xác đấy chứ?
Bất
thình lình, đại tá Moran tức tối chồm lên phía trước, nhưng hai người
cảnh sát đã kịp giữ hắn lại. Bộ mật của hắn thể hiện nỗi hằn học, nhìn
vào đó chúng tôi thấy kinh khủng, gớm ghiếc.
- Thú thật, ngài đã
mang đến cho tôi một món quà nho nhỏ, - Holmes tiếp tục công kích. - Tôi
không ngờ, chính ngài cũng muốn sử dụng ngôi nhà bỏ trống này, quả thật
thuận lợi. Tôi nghĩ thế nào ngài cũng hành động từ ngoài phố, ở đấy có
anh bạn Lestrade của tôi cùng những thủ hạ của anh ta đã đợi chờ ngài
sẵn. Trừ chi tiết ấy ra, còn mọi việc đều tiến triển đúng như tôi dự
định.
Đại tá Moran quay sang phía Lestrade.
- Không kể
những cái ấy, ngài có đủ chứng cớ, cơ sở để bắt tôi, hay là ngài không
có đủ cơ sở? - Hắn ta nói, - Tôi không thể nào chịu đựng nổi những lời
lẽ nhạo báng của con người kia. Nếu tôi ở trong tay luật pháp, thì cứ để
pháp luật giải quyết.
- Điều này công bằng thôi, - Lestrade nhận
xét. trước khi chúng tôi ra về, ngài còn muốn nói điều gì nữa không,
thưa ngài Holmes.
Holmes nhặt khẩu súng hơi đồ sộ lên, và quan sát cơ cấu của khẩu súng.
-
Khẩu súng có một không hai này mới tuyệt làm sao - Anh thốt lên. - Bắn
không nghe tiếng kêu, nhưng có sức công phá và hủy diệt rất lớn. Tôi
biết một nhà cơ khí người Đức, tên là Von Herder. Ông ta đã thiết kế
khẩu súng này theo đơn đặt hàng của ngài giáo sư Moriarty. Từ lâu tôi đã
nghe tiếng tăm khẩu súng, nhưng chưa bao giờ có vinh dự được cầm nó
trên tay. Tôi đặc biệt lưu ý ngài về khẩu súng này, và cả cách nạp đạn
cho nó nữa, thưa ngài Lestrade.
- Ngài không phải bận tâm, thưa
ngài Holmes, chúng ta còn dịp quay lại vấn đề này. - Khi tất cả mọi
người tiến sát đến cánh cửa ra vào, Lestrade đáp - Đó là tất cả những gì
ngài muốn nói?
- Vâng, tất cả, nhưng ngài định khép tên này vào tội gì?
- Còn tội gì nữa, thưa ngài? Chẳng hạn như tội mưu sát ngài Sherlock Holmes.
-
Ôi! Không phải như vậy đâu! Tôi không muốn dính lứu vào vụ này. Chỉ có
ngài mới được lãnh trọng trách làm công việc bắt bớ tuyệt vời này, ngài
đã tốn công sức đề tiến hành. Xin chúc mừng ngài Lestrade! Với sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng hiếm có và lòng quả cảm, đầy mưu lược,
cuối cùng ngài đã bắt được kẻ kia.
- Người kia là ai vậy? Hắn ta là ai, thưa ngài Holmes.
-
Người mà, cả ngành cảnh sát đã hoài công tìm kiếm, truy nã. Đại tá
Sebastian Moran, kẻ mà vào đêm 30 tháng trước đã bắn chết ngài Ronald
Adair bằng khẩu súng hơi, bắn qua cửa sổ tầng hai ngôi nhà 427, phố Park
Lane. Chúng ta cần lời buộc tội như vậy.... Còn bây giờ, Watson, nếu
cậu không sợ gió lùa từ cánh cửa sổ bị vỡ kính, thì chúng ta sẽ cùng
nhau ngồi trong phòng tớ, và hút với nhau điếu thuốc. Tớ hy vọng sẽ làm
cho cậu khuây khỏa phần nào.
Sự quan tâm thường xuyên của anh
Mycroft Holmes và sự chăm sóc tận tụy của bà Hudson, căn hộ của chúng
tôi vẫn như xưa, không hề có gì thay đổi. Thú thật, khi bước vào, tôi
lấy làm ngạc nhiên vì sự tươm tất hiếm có, mọi thứ thân thuộc quen biết
đều nằm ở vị trí cũ. Ớ góc dành riêng cho những thí nghiệm hóa học, một
chiếc tủ bằng gỗ thông vẫn như xưa, vẫn những vết ố do a-xít mạnh. Trên
giá những chồng sách tra cứu, những mẩu tin cắt từ các tờ báo vẫn được
sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Ôi, tôi chỉ muốn ném hết những thứ chết
tiệt kia vào lửa cho rảnh! Khi tôi nhìn hết một lượt, thì những bản biểu
đồ, hộp đựng đàn viôlông, chiếc hộp Ba Tư đựng thuốc lá lại hiện lên
trước mắt tôi. Hai người có mặt trong phòng. Một là bà Hudson chạy vồn
vã đón mừng chúng tôi với nụ cười lấp láy trên môi. Người thứ hai, người
mặc đồ màu cũ kỹ, đã đóng một vai rất quan trọng trong những sự kiện
đêm hôm qua. Đó là bức tượng bằng sáp của bạn tôi, đã được tô màu, được
tạc thật khéo léo do một bàn tay điêu luyện nhào nặn, trông giống như
thật.
Bức tượng được đặt trên một chiếc ghế đẩu không cao, được
khoác chiếc áo bành tô cũ của Sherlock Holmes trông rõ khéo, từ ngoài
đường nhìn vào thì khó ai tưởng đó là tượng.
- Bà đã thực hiện tất cả chỉ dẫn của tôi một cách tuyệt vời. - Holmes nói.
- Tôi phải bò bằng đầu gối để tiến sát bức tượng, như ngài chỉ bảo thưa ngài.
- Tốt, bà đã làm việc đó không thể chê vào đâu được. Bà có thấy viên đạn đâm vào đâu không?
-
Có thưa ngài. Tôi sợ viên đạn làm hỏng mất bức tượng đẹp đẽ của ngài.
Nó xuyên qua đầu và cắm vào tường. Tôi nhặt nó lên từ tấm thảm. Nó đây.
Holmes chìa cho tôi xem đầu đạn.
- Đầu đạn súng lục mềm mại, Watson, cậu hãy nhìn xem.
Thật
là cự phách! Có ai dám nghĩ viên đạn này lại được bắn ra từ khẩu súng
hơi? Rất tuyệt, bà Hudson, xin cảm ơn bà vì sự giúp đỡ.... Còn bây giờ,
Watson, cậu hãy ngồi vào vị trí cũ của mình như thuở nào. Tớ muốn tâm sự
với cậu đôi điều.
Anh cởi chiếc áo khoác ra, rồi lấy chiếc áo
choàng trên bức tượng khoác vào. Trước mặt tôi lại xuất hiện một
Sherlock Holmes ngày xưa.
- Thần kinh của người thợ săn già vẫn
còn vững, cặp mắt vẫn còn tinh. - Anh nói và cười, vừa nhìn cái sọ của
bức tượng bằng sáp bị bắn thủng.- Bắn trúng chính giữa gáy và làm chảy
não. Đúng là một tay thiện xạ của rừng nhiệt đới ở Ấn Độ. Tớ nghĩ rằng, ở
Luân Đôn này địch thủ của hắn không phải là nhiều. Trước kia cậu có bao
giờ nghe tên hắn hay chưa?
- Không, tớ chưa từng nghe.
- Ừ
nhỉ, thế mà tớ quên! Cách đây không lâu, cậu đã thú nhận, thậm chí cậu
còn chưa nghe đến tên giáo sư Moriarty, đó là một bộ óc của thế kỷ chúng
ta. May quá, cậu lấy giúp cặp đựng tài liệu theo đòi tiều sử....
Sau
khi ngồi lại ngay ngắn, thả người thoải mái trong chiếc ghế bành và
khoan khoái thở ra từng đụn khói thuốc, Holmes lơ đễnh lật từng trang
giấy.
- Vần chữ “M”, tớ có một bộ sưu tầm khá hoàn chỉnh, - Anh
nói. - Chỉ một cái tên Moriarty, cũng đủ làm cho vần “M” trở nên nổi
tiếng. Còn cái tên Morgan là một tên ghê tởm. Tên Merridew, có một trí
nhớ khó ai sánh kịp. Tên Mathews - chính là tên làm gãy chiếc răng nanh
bên trái của tớ ở phòng đợi nhà ga Charing Cross. Còn đây là anh bạn của
chúng mình ngày hôm nay.
Anh đưa cho tôi tập tài liệu, tôi đọc :
“Moran
Sebastian, đại tá nghỉ hưu. Từng phục vụ trong trung đoàn công biệt số
một ở Bangalore. Sinh năm 1840 tại Luân Đôn. Con trai của ngài Augutus
Moran - người được thưởng huân chương British, một thám tử cũ của Anh ở
Persia, Sebastian từng tốt nghiệp trường trung học Itônx và đại học tổng
hợp Oxford. Từng làm liên lạc cho các hội, tập đoàn Jowaki, Afghan,
Charasiab, Sherpur và Cabul. Là tác giả của các cuốn sách “Cuộc đi săn
mãnh thú ở miền Tây Himalayas” (1881); và “Ba tháng sống trong rừng
nhiệt đới” (1884). Địa chỉ đường Conduit. Tham gia các câu lạc bộ Anh -
Ấn: Tankerville, câu lạc bộ chơi bài Bagatelle”.
Ngoài lề được ghi bằng nét chữ của Holmes :
“Một tên nguy hiểm nhất của Luân Đôn, đứng sau Moriarty”.
-
Thật kỳ lạ! - Tôi lên tiếng, và đưa trả Holmes cặp tài liệu. - Dường
như cuộc đời của hắn là bước đường của một người lính trung thành.
- Cậu nói đúng. - Holmes đáp.
-
Trước kia hắn không hề làm việc gì xấu xa. Hắn là con người có bộ thần
kinh bằng thép, ở Ấn Độ đến bây giờ vẫn lưu truyền một huyền thoại kể
rằng: Anh ta đã bò trong lòng một con sông cạn, đã cứu thoát một người
khỏi những móng vuốt của một con hổ bị thương. Có những cây gỗ, lúc đầu
mọc, phát triển bình thường, rồi đến một độ cao xác định nào đó, bỗng
nhiên phát hiện trong quá trình phát triển của mình một sự biến đổi kỳ
quặc so với mức bình thường. Đối với con người cũng xảy ra điều tương
tự. Theo thuyết của tớ, mỗi cá nhân trong quá trình phát triển, đều lặp
lại lịch sử phát triển của tất cả tổ tiên. Tớ cho rằng, mỗi một biến
động bất ngờ về phía lương thiện hay độc ác đều phụ thuộc vào điều kiện
khách quan tác động rất mạnh; muốn biết được quá khứ của một người, cần
phải lục xem trong gia phả người ấy; và suy luận rộng ra, tiểu sử của
một con người, đó như là một mẩu nhỏ trong tiểu phẩm cả tiểu sử của toàn
bộ gia đình.
- Thôi được, nhưng tớ thấy cái thuyết lý của cậu hơi viễn vong.
-
Tớ sẽ chấm dứt câu chuyện. Có những nguyên nhân này, hoặc nguyên nhân
khác, đã đẩy đại tá Moran đi theo con đường ngu xuẩn. Khi còn ở Ấn Độ có
một kẻ đê tiện đã dựng lên câu chuyện nào đó gây căng thẳng cho ông ta,
nhằm chống ông ta một cách kịch liệt, đến nỗi ông ta không thể nào ở
lại được nữa.
Ông ta xin về hưu, trở lại đất Luân Đôn, và tại đây
ông ta đã bước vào con đường tội lỗi. Giáo sư Moriarty đã phát hiện ra
ông ta, trong một thời gian dài ông ta là cánh tay phải của Moriarty. Thằng giáo sư này cung cấp tiền nong cho ngài đại tá tiêu xài một cách
phóng khoáng. Nhưng rất hãn hữu mới cần tới sự giúp đỡ của hắn. Chỉ
trong hai hoặc ba trường hợp khó khăn mà những tên tội phạm bình thường
không thể đảm đương nổi. Có lẽ, cậu còn nhớ cái chết kỳ quặc của bà
Stewart ở Lauder năm 1887? Không nhớ à? Tớ chắc chắn chuyện này không
thể không có tay Moran nhúng vào, mặc dù không có chứng cớ để buộc tội
hắn ta. Ngài đại tá có nghệ thuật giấu mình một cách tài tình.
Khi cả băng của Moriarty bị tóm hết, thì chỉ riêng hắn là không làm sao lôi cổ ra toà được.
Watson,
cậu còn nhớ buổi tối, khi tớ đến chỗ cậu, tớ phải kéo rèm cẩn thận
không? Tớ sợ phát súng bắn ra từ khẩu súng hơi đặc biệt. Lúc bấy giờ cậu
cho tớ là kỳ quặc, nhưng tớ biết mình cần phải làm gì. Tớ đã nghe nói
về khẩu súng đặc biệt kia rồi. Hơn nữa, tớ biết khẩu súng đang nằm trong
tay một nhà thiện xạ. Khi tớ với cậu đi sang Thụy Điển, Moran và
Moriarty đã đuổi theo chúng ta, và chính hắn đã làm cho tớ bàng hoàng
trong mấy phút ở khe lở của thác Reichenbach.
Cậu biết không, khi
còn ở bên Pháp tớ vẫn thường xuyên theo dõi tin tức trên báo chí Anh,
tớ hy vọng sẽ tìm ra đầu mối nào đó để bắt hắn ta phải ngồi vào lồng
sắt. Khi hắn còn nhởn nhơ dạo chơi trên đất Luân Đôn thì tớ chưa thể
tính chuyện về được. Cả ngày lẫn đêm, mối đe dọa kia cứ ám ảnh tớ, dứt
khoát hắn sẽ tìm mọi cách để giết tớ. Tớ phải làm gì? Chẳng lẽ gặp trực
tiếp và bắn chết hắn? Tớ không thể làm như vậy được. Vì lúc ấy, chính tớ
sẽ bị ngồi vào ghế bị cáo. Trực tiếp đến báo với tòa? Không ích lợi gì,
vì tòa sẽ không đủ chứng cớ để xét xử, chẳng lẽ xử hắn bằng những vấn
đề nghi vấn? Tớ bất lực hoàn toàn, không có cách nào để giải thoát được.
Tớ đã trải qua một quá trình kiên trì không mệt mỏi theo dõi hắn bằng
tin tức các vụ án, bởi tớ tin như đinh đóng cột rằng dù sớm hay muộn tớ
cũng phanh phui ra hắn.
Vụ ám sát đầy bí ẩn anh chàng Ronald
Adair đã dẫn đến sự chín muồi của những ngày kiên trì mong đợi, giờ khởi
hành đã đến. Không biết tớ có dám khẳng định Moran đã bắn chết chàng
Ronald hay không? Hắn ta đã cùng chơi bài với chàng thanh niên, và bám
gót anh ta từ câu lạc bộ về nhà, sau đó bắn chết chàng trai qua cửa sổ
đã mở. Đúng, không còn nghi ngờ gì nữa. Chỉ một đầu đạn, cũng đủ chứng
cớ để ngài đại tá Moran chui vào giá treo cổ. Ngay lập tức tớ quay về
Luân Đôn. Tên cận vệ của Moran đã phát hiện ra tớ, hắn kịp thời thông
báo cho Moran. Thằng này thế nào cũng biết mối liên hệ giữa vụ án mạng
và sự quay về của tớ, hắn sẽ lo lắng mất ăn mất ngủ. Tớ tin, hắn sẽ khử
tớ ngay lập tức, không chậm trễ. Chắc chắn hắn sẽ dùng thứ vũ khí giết
người độc đáo - khẩu súng hơi. Tớ phải chuẩn bị đón hắn, thế là bức
tượng bằng sáp được ra đời không chê vào đâu được. Tớ báo trước cho bên
cảnh sát, để họ giúp một tay (với con mắt tinh ranh cậu đã phát hiện ra
hai viên cảnh sát thấp thoáng chỗ cổng ra vào). Tớ chọn địa điểm rất
thuận tiện cho việc quan sát, nhưng thú thật tớ không ngờ đối thủ của tớ
cũng chọn đúng vị trì ấy để tấn công. Tất cả chỉ có thế, Watson. Chắc
cậu đã hiểu mọi chuyện.
- Chưa hết, - Tôi nói. - cậu chưa giải thích cho tớ chuyện vì sao ngài đại tá Moran lại bắt buộc phải thủ tiêu anh chàng Adair?
-
Anh bạn của tôi ơi, chúng ta lại rơi vào lĩnh vực đoán mò rồi, trong
lĩnh vực này chỉ có logic không thì quả là quá ít ỏi. Mỗi người có thể
xây dựng riêng cho mình một giả thuyết, dựa trên cơ sở những dữ kiện
đang tồn tại. Giả thuyết của cậu cũng có khả năng trùng với giả thuyết
của tớ.
- Có nghĩa là, cậu đã nghĩ ra giả thuyết?
- Theo tớ nghĩ, giải thích những dữ kiện đã có không khó.
Qua
điều tra, người ta đã xác lập là trước lúc xảy ra vụ án không lâu, đại
tá Moran và anh chàng Adair đã cùng ở một hội chơi bài và ăn được một
món tiền khá lớn. Nhưng Moran đã chơi không trung thực. Từ lâu, tớ được
biết hắn là một tay cờ bạc gian lận. Có lẽ, trong ngày xảy ra vụ án,
Adair đã cảnh cáo Moran vì những trò gian lận. Anh chàng Adair đã giáp
mặt với đại tá, chắc có dọa sẽ tố cáo hắn, nếu như hắn không tự nguyện
rời bỏ câu lạc bộ và từ nay về sau không được chơi cái trò ma cô ma cậu
nữa. Một chàng trai miệng còn hơi sữa như Adair, lại dám công khai dọa
tố cáo buộc tội một con người đáng tuổi cha chú của anh ta, hơn nữa hắn
còn chiếm một địa vị sang trọng trong xã hội! Có lẽ, đúng hơn, anh ta đã
nói riêng với Moran, không có người làm chứng. Nhưng với Moran, một con
người chuyên sống bằng bạc bịp, nếu bị khai trừ ra khỏi câu lạc bộ thì
khác nào bị cắt đường sinh sống? Đó là nguyên nhân để hắn giết Adair, và
giết vào chính thời điểm anh chàng trai trẻ chưa kịp sử dụng kết quả
cuộc chơi không trung thực; chưa kịp tính phần thắng của anh ta là bao
nhiêu và anh ta cần phải trả lại những người thua cuộc là bao nhiêu. Anh
ta đã khóa chặt cửa lại để không muốn mẹ và em gái thấy anh ta đang
tính toán và thắc mắc về những cái tên ghi trong tờ giấy và những chồng
tiền đặt trên bàn. Sao, theo cậu, lời giải thích của tớ có phù hợp hay
không?
- Tớ cho rằng, cậu đã nói trúng tim đen hắn.
-
Cuộc điều tra xét hỏi sẽ chứng minh cho lời giải thích của tớ đúng hay
sai. Từ đây đại tá Moran không còn là mối lo ngại cho chúng ta, và khẩu
súng hơi kỳ diệu của Von Herder sẽ trang điểm cho bộ sưu tập của Viện
bảo tàng Scotland Yard. Từ nay, không còn ai quấy rầy ngài Sherlock
Holmes tham gia vào công việc giải quyết những câu chuyện bí ẩn, nhưng
đầy lý thú.
Cuộc sống phức tạp ở Luân Đôn trở nên phong phú và bình yên, êm ả hơn.
HẾT
Kẻ dị dạng
phần 1:
Một buổi tối, tôi ngủ gà ngủ gật trên một cuốn tiểu thuyết. Nhà tôi đã lên trên lầu. Tiếng then cài cánh cửa ra vào báo cho tôi biết là những người giúp việc đã lui về. Tôi còn chờ thêm chút nữa rồi mới đứng lên khỏi ghế. Đúng vào lúc đó, tiếng chuông vang lên.
Tôi dồn dập đặt nhiều câu hỏi.
Sau chót cô nhớ rằng có hai lần cô đã nghe thấy bà chủ thốt lên cái tên
“David”. Điểm đó có tầm quan trọng cao để soi sáng cho chúng ta về những
nguyên cớ gây ra cãi vã.
phần 2:
Một điều gây ra cảm tưởng sâu đậm cho mọi người là: những nét nhăn nhỏ của ông đại tá. Theo lời chúng của họ, vẻ mặt ông có một nét biểu lộ sự khiếp sợ và sự kinh hoàng chưa từng thấy. Rõ ràng là ông biết mình sắp chết và rằng sự trông thấy cái chết đã làm cho ông kinh hoàng. Điều đó, phù hợp với lý thuyết của cảnh sát: ông đại tá hẳn đã thấy vợ mình chuẩn bị giết mình. Và cái việc cú đánh đã được giáng xuống từ đằng sau cũng không mâu thuẫn với lý thuyết đó, bởi vì ông đại tá rất có thể quay mình để né tránh cú đánh. Về phía bà Barclay, người ta không có một tin tức nào cả. Bà bị một cơn cấp phát sốt thuộc não và tạm thời bị mấy lý trí.
-
Tôi đã hứa với bạn tôi rằng tôi sẽ không nói ra bất cứ điều gì. Nhưng
nay bà ấy lâm trọng bệnh và đang trên bờ của sự tù tội, vậy thì tôi
không thể làm thinh. Thưa ông, tối thứ hai đó chúng tôi từ Hội quán trở
về. Lúc ấy vào khoảng chín giờ kém mười lăm. Khi băng ngang qua đường
Hudson - một con đường rất lớn và rất yên tĩnh - tôi thấy một người đàn
ông tiến lại phía chúng tôi: lưng rất còng và đeo một cái hộp chéo qua
vai, đầu cúi thấp và bước đi với hai đầu gối co gấp lại. Ông ta ngước
mắt lên đúng vào lúc chúng tôi bước vào trong cái vòng ánh sáng của ngọn
đèn đường. Ngay tức khắc, ông ta đứng lại và kêu lên bằng một giọng
khủng khiếp: “Lạy Chúa tôi, đây đúng là Nancy!” Bà Barclay bỗng tái mét.
Bà hẳn đã sụp xuống nếu con quái vật đó không đỡ lấy bà. Tôi chực kêu
cứu, nhưng bà lại dịu dàng nói với người đàn ông.
Phần 3:
- Henry, em cứ tin rằng anh đã chết từ ba chục năm qua.
Toàn thể
trung đoàn, thêm phân nửa đội pháp binh, một đại đội lính người Sikhs và
nhiều người thường dân cùng đàn bà, trẻ con bị bao vây trong miền
Bhurtee. Tới tuần thứ hai thì nước bắt đầu khan hiếm. Cần phải liên lạc
với đoàn quân của tướng Neill đang ngược lên xứ đó. Đó là cơ may duy
nhất. Tôi tự ý tình nguyện lẻn ra khỏi vòng vây và báo cho tướng Neill
biết về tình trạng nguy ngập của chúng tôi. Đề nghị của tôi được chấp
thuận. Tôi bàn bạc với trung sĩ Barclay, là người biết rõ thực địa hơn
bất cứ ai. Ông ta đã vẽ cho tôi một bản đồ để ra khỏi vòng vây. Tới 10
giờ tối tôi lên đường. Có cả ngàn sinh mạng cần được cứu sống, nhưng
thật tâm tôi chỉ nghĩ đến có một người: Nàng.
Phần 4:
Con đường men theo một dòng nước cạn: tôi hy vọng là đi như thế sẽ thoát
được sự canh chừng của bên địch. Nhưng trong lúc đang bò, tôi rơi vào
tay sáu tên lính gác đang chờ đợi tôi. Trong hai giây, tôi bị choáng
váng vì một cú đánh rồi bị trói. Cú đánh đó làm cho tôi đau đớn trong
lòng người hơn là ở trên đầu, bởi vì tôi nghe quan Cipayes nói với nhau
rằng chính Barclay đã cho một đầy tớ địa phương đến báo tin cho họ, nhờ
vậy họ mới bắt được tôi.
0 comments:
Post a Comment